Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,  Lào - Việt Nam - bản chất, thành quả, bài học và triển vọng

06/07/2017 | 09:08 GMT+7

(Tiếp theo)

Hưởng ứng “Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2017, tiến tới kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (5/9/1962 - 5/9/2017) và 40 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2017)”, Báo Hậu Giang giới thiệu đến Quý độc giả nội dung về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển vượt bậc, tạo nên sức mạnh kỳ diệu mới, đưa cách mạng giải phóng dân tộc của hai nước tới thắng lợi hoàn toàn.

Hai mươi mốt năm chống Mỹ là một chặng đường kế tục, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, trong đó nổi bật lên những hoạt động tiêu biểu, điển hình:

Sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào phá vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và bộ phận đầu não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.

Ngay sau khi nghe báo cáo tình hình Lào từ lúc thành lập Chính phủ liên hiệp cuối năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá những kết quả mà Pathết Lào giành được. Mặt khác, Người chỉ rõ: việc đưa hai tỉnh tập kết của Pathết Lào vào Vương quốc là âm mưu “điệu hổ ly sơn” của Mỹ để đi đến tiêu diệt lực lượng Pathết Lào. Người chỉ dẫn phương pháp hoạt động mới và cách đối phó với địch.

Những lời phát biểu chân tình, quý báu và kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được các cơ quan có trách nhiệm của hai nước lĩnh hội và thực hiện.

Do sự hợp lực giữa hai phía Lào, Việt Nam, Tiểu đoàn 2 Pathết Lào đã mưu trí, anh dũng chiến đấu thoát ra khỏi vòng vây của địch tại Xiêng Khoảng vào tháng 5 năm 1959, trở về căn cứ an toàn sau 15 ngày.

Sau một thời gian chuẩn bị rất công phu của lực lượng cách mạng bên ngoài phối hợp với các đồng chí lãnh đạo Lào bị giam tại trại giam Phôn Khênh, cuối cùng, đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng phía Lào và phía Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo Lào và cán bộ bị bắt đã vượt khỏi trại giam Phôn Khênh tại Viêng Chăn. Đánh giá sự kiện lịch sử này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:

“Cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông là một chiến công đặc biệt, tiêu biểu cho tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Chúng ta hãy giữ vững và phát triển tình hữu nghị đặc biệt ấy”.

Sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam để xác định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở Lào.

Từ đầu năm 1958, xu thế phát triển của tình hình Lào ngày càng thể hiện rõ sự can thiệp, xâm nhập mạnh mẽ và toàn diện của Mỹ. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3 tháng 6 năm 1959, bàn về vấn đề Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu phương pháp đấu tranh của cách mạng Lào: “Phải dùng du kích (BBS nhấn mạnh) phong trào sẽ lan rộng”… “Phải trường kỳ gian khổ, phải chú ý dân vận, địch vận”.

Đến tháng 7 năm 1959, hai Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào nhất trí quyết định phát động cuộc đấu tranh vũ trang trong mùa mưa năm 1959: lấy trọng tâm là chiến tranh du kích, phát động phong trào quần chúng nổi dậy, giành chính quyền tại thôn xã.

Trung tuần tháng 7 năm 1959, bộ đội Lào mở ba hướng tấn công, hướng chính từ đông nam Sầm Nưa tới đông nam Xiêng Khoảng. Hướng thứ hai hoạt động chủ yếu tại vùng Mương Xon - bắc Sầm Nưa đến Phôngxalỳ, Luổng Phạbang đến Xiêng Ngân. Hướng thứ ba có nhiệm vụ phối hợp tại địa bàn từ bắc đường 8 đến đường 12 Khăm Muộn.

Các đòn tấn công đó hỗ trợ nhân dân trong vùng nổi dậy giải phóng nhiều huyện, xã tại các tỉnh Hủa Phăn, Phôngxalỳ, Xiêng Khoảng, Luổng Phạbang, Khăm Muộn.

Tuyến đường chiến lược Trường Sơn là một công trình vĩ đại, biểu tượng cao đẹp của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Năm 1959, nhằm đáp ứng nhu cầu chi viện sức người, sức của cho các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, việc mở đường chiến lược Trường Sơn càng trở nên cấp bách. Theo đề nghị của Việt Nam, tại cuộc hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam cuối năm 1960, phía Lào hoàn toàn ủng hộ chủ trương mở đường Tây Trường Sơn và phát biểu: “Vận mệnh hai nước chúng ta gắn bó mật thiết với nhau. Nhân dân Lào sẽ làm hết sức mình để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam anh em”.

Công cuộc mở đường diễn ra với sự phối hợp lực lượng Lào, Việt Nam cùng tiến hành.

Phần đường phía tây Trường Sơn vốn là địa bàn sinh sống của nhiều bộ tộc Lào, là trọng điểm đánh phá ác liệt của đối phương. Nhưng nhân dân Lào không hề nao núng ý chí, vẫn sẵn sàng dành một phần lãnh thổ của mình cho tuyến đường chiến lược đi qua. Đây là cống hiến vô cùng quý giá của nhân dân Lào cho thắng lợi của Việt Nam và quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

Đường Trường Sơn vừa là tuyến đường chuyển vận người và vật chất từ hậu phương lớn miền Bắc Việt Nam chi viện cho chiến trường ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; cũng là nơi thiết lập căn cứ hậu cần khổng lồ, dự trữ và cung cấp vũ khí, hàng quân dụng, dân dụng cho tiền tuyến.

Nơi đây biến thành chiến trường phản công quyết liệt của bộ đội Việt Nam và bộ đội Lào trong cùng một lực lượng liên minh, ghi lại biết bao chiến công hiển hách giáng trả các mũi tấn công của đối phương. Tất cả đã tạo dựng nên một biểu tượng cao đẹp của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúng như lời phát biểu của đồng chí Cayxỏn Phômvihản:

“Chúng tôi vui mừng và rất tự hào là trên vùng phía đông của đất nước chúng tôi có con đường quan trọng được mang tên “Hồ Chí Minh” đã góp phần tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng miền Nam Việt Nam”.

Thắng lợi vĩ đại của hai dân tộc Việt Nam, Lào diễn ra năm 1975, kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, lập hai kỳ tích chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đánh dấu sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và sự thất bại của chủ nghĩa thực dân mới, dù đế quốc Pháp, Mỹ đã gắng hết sức nhưng không thể nào cứu vãn nổi.

(Còn tiếp)

(Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG).

Viết bình luận mới
Tin cùng chuyên mục
Các tin khác
Xem thêm >>