GIÁ TRỊ SÂU SẮC VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ỏ VIỆT NAM QUA BÀI VIẾT CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Thứ Hai, ngày 30/09/2024 | 05:55

Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử, Ngay từ khi ra đời (03/2/1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường xã hội chủ nghĩa, ngay sau ngày 02/2/1945 lịch sử, Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta kiên quyết đã lựa chọn con đường đi lên CNXH (chủ nghĩa xã hội). CNTB (chủ nghĩa tư bản) không phải là tương lai của nhân loại cho dù hiện nay, bằng những cố gắng thích nghi với tình hình mới, CNTB vẫn đang có những thành tựu phát triển, nhưng vẫn không vượt qua khỏi giới hạn của nóm, mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời có sự vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Người nhận thức rõ Việt Nam có đặc thù riêng, có phong tục, tập quá, lịch sử riêng, nên bên cạnh việc học tập kinh nghiệm của các nước XHCN khác, cần phải có phương pháp xây dựng CNXH gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, CNTB không phải và không bao giờ là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người. Như khẳng định của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, do vậy các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra. Chẳng hạn như khủng hoảng trong việc giải quyết dịch bệnh COVID -19, hay chiến sự Nga – Ucraina, nội chiến ở Myanmar, bạo loạn lật đổ Bangladesh hiện nay đang làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, biểu tình, bãi công… không chỉ ở thế giới tư bản, mà còn đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn vong và phát triển của nhân loại. Hậu quả nhãn tiền của nó là: một châu Phi đói, một châu Á nghèo, một châu Mỹ nợ nần chồng chất và một châu Âu chia rẽ, khủng hoảng kinh tế và bất ổn an ninh - chính trị,… Đó chính là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Cho dù CNTB còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải là sự “cáo chung” của CNXH, nó cũng không phải do chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời như các thế lực thù địch, cơ hội chính trị hằng rêu rao, thoá mạ, mà đó là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp. Các nước XHCN còn lại vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới, cải cách để tìm kiếm những mô hình phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc mình. Công cuộc cải cách của Trung Quốc xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc; công cuộc đổi mới của Việt Nam, Lào, Cuba và một số trào lưu CNXH trên thế giới đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định con đường đi lên CNXH là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Trong bối cảnh tình hình thế giới ngày càng diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; ở trong nước, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thì việc nghiên cứu những nhận thức lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam qua tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một công việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, làm sáng tỏ hệ quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH; làm rõ hơn đặc trưng, tính chất, phương thức, định hướng CNXH ở Việt Nam; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam; làm cơ sở cho đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch, phản động, cơ hội chính trị... Những nhận thức lý luận của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự kế thừa và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm khoa học về phát triển trong bối cảnh mới; thể hiện tính thời đại; phản ánh được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín, tinh thần Việt Nam trong thời đại mới. Hệ thống nhận thức lý luận của cố Tổng Bí thư còn là sự kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và trí tuệ tập thể của Đảng và nhân dân, là sự định hướng cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam qua tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có những điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, Chủ nghĩa xã hội là gì? Trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến bất công xã hội tư bản chủ nghĩa cũng như mục tiêu cao nhất của CNTB là lợi nhuận, thước đo của nền văn minh là đời sống vật chất, nơi xã hội dựa trên lợi ích cá nhân, quyền lực chủ yếu vẫn nằm trong tay số ít người giàu có và phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Từ đó, tác phẩm đã dẫn giải: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để đảm bảo môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dung vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. Rõ ràng, xã hội XHCN là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

Tác phẩm cũng đã khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Trong thời kỳ đổi mới theo định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, có ý kiến lo ngại là “đổi mới” hay “đổi màu”, công cuộc đổi mới có giữ vững được định hướng CNXH hay không, phát triển có hợp quy luật không? Vì thế, công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng ta là một vấn đề lớn, thu hút nhiều sự chú ý ở cả trong nước và nước ngoài trong những năm qua. Kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay, đã có những cuộc hội thảo bàn luận khá sôi nổi về khả năng và triển vọng của CNXH; trong đó, không ít ý kiến có biểu hiện dao động, hoài nghi về tương lai của chế độ XHCN. Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, CNXH hiện thực rơi vào khủng hoảng trầm trọng, sụp đổ ở Liên Xô và một số nước Đông Âu; nhưng, với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử

Thứ hai, Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Tác giả viết: “CNTB chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ.” (tr. 18-19). Nhưng, CNTB không phải là sự lựa chọn của chúng ta!, bởi “CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, đó là: “Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái…Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”. Tác giả chỉ rõ về con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển CNTB”. Và rõ ràng, “Con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. “…nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”.

Tác giả đã thể hiện sự nhất quán, khẳng định xây dựng chế độ XHCN ở Việt Nam là đem lại tự do, hạnh phúc của nhân dân: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng, Nhà nước luôn luôn thực hiện quan điểm nhất quán là “dân là gốc”, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Từ đó khẳng định vai trò của chủ nghĩa xã hội hiện thực, khẳng định, CNXH là xu thế phát triển của lịch sử loài người, “Ði lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”, điều đó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ra đi tìm đường cứu nước, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; “Chỉ có CNXH và CNCS mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”. Từ đó, cố Tổng Bí thư chỉ rõ: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Thứ ba, Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Tác giả đã đánh giá đúng sự sụp đổ của mô hình xây dựng CNXH ở Liên Xô và Đông Âu và đặt ra câu hỏi: “…Bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước XHCN Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH….Thực tế có phải như vậy không?”. Tuy nhiên, CNXH là gì và bằng cách nào để đi lên CNXH phù hợp với điều kiện Việt Nam là một vấn đề không hề đơn giản cả về lý luận và thực tiễn, “đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Đối với đất nước ta, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới (năm 1986), mà trước hết là đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lần đầu tiên Đảng ta phác thảo ra mô hình và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, trong đó có nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên CNXH. Qua các kỳ Đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. Nội dung trong tác phẩm đã khẳng định tính tất yếu của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. CNXH mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: CNXH mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Thứ tư, tác giả đã khẳng định ý nghĩa thực tiễn của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam hơn 70 năm qua, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới mặc dù còn nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết nhưng thành tựu là to lớn, có ý nghĩa lịch sử khá toàn diện. Thành tựu đó được thể hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị cho đến các lĩnh vực khác. Điều này phản ánh niềm tin của người dân vào Đảng, vào chế độ, vào con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Công cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cùng các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho đất nước trong hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”… Việt Nam kiên định đi theo con đường CNXH, là một hình mẫu đặc thù của CNXH với điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ và kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho nhiệm kỳ sau. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới với những thành tựu to lớn đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước trong những mốc lịch sử quan trọng: Một là, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đảng ta đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, trong đó: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD”. Hai là, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta xác định 12 định hướng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó về lĩnh vực kinh tế là: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng…; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Ba là, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Giá trị sâu sắc, đúng đắn về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay: với lập luận chặt chẽ, phân tích sâu sắc, chắt lọc từ thực tiễn phong phú, tác giả đã tổng kết lịch sử phát triển của thế giới đương đại cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó khẳng định một cách khoa học về con đường duy nhất đúng cho sự phát triển của đất nước - đó là con đường XHCN. Cố Tổng bí thư nhấn mạnh: nhân dân Việt Nam đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của Đảng, là nguyên lý thành công của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu duy nhất đúng để đạt được tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, đó là:

Về giá trị lý luận: yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay tiếp tục đặt ra cho công tác lý luận là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan về những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu làm rõ một cách tổng quát lộ trình và những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội dung cơ bản của từng chặng đường đó…; những thành tựu đã đạt được và hạn chế trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở các chặng đường đã qua của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Việc xây dựng lý luận về CNXH ở Việt Nam hiện nay đứng trước bối cảnh lịch sử mới, nên nhiệm vụ đặt ra là phải vừa tổng kết, tham chiếu các mô hình CNXH ở các nước, vừa bám sát điều kiện cụ thể của nước ta. Khi xây dựng lý luận về CNXH ở Việt Nam cần làm sáng tỏ mấy vấn đề cơ bản sau: Phân tích bối cảnh để đánh giá đầy đủ về cơ hội, thách thức, nguy cơ; đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh đó để xác định mô hình CNXH Việt Nam, từ đó đề ra biện pháp, bước đi thích hợp trong từng thời kỳ, sát hợp với tình hình thế giới và thực tiễn Việt Nam để hiện thực hóa mô hình đó.

CNXH chỉ tạm thời lâm vào thoái trào, các nước XHCN vẫn không ngừng cải cách, đổi mới, khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và đã có những thành tựu nhất định. Các nước đi theo con đường CNXH, như Trung Quốc, Việt Nam… tiếp tục phát triển ổn định, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, uy tín và vị thế quốc gia ngày càng nâng lên trên trường quốc tế. Đây là tác nhân rất lớn góp phần vào việc tái cân bằng cục diện thế giới mới, từ đơn cực sang đa cực, từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng phát triển. Các phong trào cánh tả những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, mặc dù đưa ra những cương lĩnh chính trị, chương trình hành động chính trị khác nhau, nhưng đều có những cải cách tiến bộ, mang lại lợi ích cho người lao động. Qua đó phản ánh khuynh hướng tìm kiếm con đường đi tới một xã hội tốt đẹp, CNXH vẫn là xu thế tất yếu của thời đại, là mục tiêu hành động của nhân dân lao động, của các đảng chính trị tiến bộ ngày nay. Các giá trị như công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do vẫn là những giá trị được nhân dân lao động và các đảng chính trị tiến bộ hướng đến. Việc thường xuyên tổng kết thực tiễn để hoàn thiện lý luận về CNXH ở Việt Nam thể hiện Đảng luôn sáng tạo trong việc xây dựng lý luận về CNXH phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, phòng, tránh bệnh chủ quan, giáo điều. Tác giả đã nói rõ: “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”.

Về giá trị tư tưởng: Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước XHCN, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng - sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bằng nhiều thủ đoạn để tiến hành “cách mạng trắng”, “cách mạng màu” để xoá bỏ CNXH hội ở nước ta, biến nước ta thành một quân cờ trên bàn cờ chính trị thế giới. Để hiện thực hóa mô hình CNXH Việt Nam, đòi hỏi cả một sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn và phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, cạnh tranh với nhau, luôn có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Đi lên CNXH là quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố XHCN, để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng những nhân tố, thiết chế, thể chế phi CNXH, không phù hợp với chế độ XHCN. Phải đầu tư sức người, sức của to lớn, phải sáng tạo không mệt mỏi, đặc biệt là phải suy nghĩ, tìm tòi lộ trình và bước đi hợp lý, cách làm đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra; phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.

Việc làm rõ con đường đi CNXH ở Việt Nam có giá trị tư tưởng quan trọng, là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Về giá trị thực tiễn: Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt nam luôn khẳng định: CNXH là mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, “bỏ qua thời kỳ tư bổn chủ nghĩa mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”. Nghĩa là, chúng ta “bỏ qua” chế độ t­ư bản chủ nghĩa, tiến lên CNXH theo cách riêng của mình hợp quy luật phổ biến, từ thực tế của đất n­ước và hợp với xu thế phát triển của thời đại, không chịu bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài và nhất là không ảo t­ưởng vào một mô hình tiên nghiệm hay sẵn có nào. Xuất phát từ những luận điểm đó, với thực tiễn của hơn 70 năm xây dựng CNXH, hơn 30 năm đổi mới, đất nước tiếp tục tiến lên CNXH với một tương quan mới, vị thế mới, tốc độ mới; Hóa thân trong công cuộc đổi mới, với tư cách vừa là người khởi xướng vừa là người lãnh đạo vừa là người tổ chức thực tiễn, Đảng ta không ngừng phát triển và trưởng thành vượt bậc một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Công cuộc đổi mới tiến những bước quan trọng, đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới, với một vị thế mới.

Điều đó chứng tỏ: “CNXH mang đặc sắc Việt Nam đã khiến quốc gia này thành nước có sức ảnh hưởng lớn nhất tại bán đảo Đông Dương”. “Việt Nam đang thực hiện một quá trình đổi mới đầy sáng tạo nhằm đưa chủ nghĩa xã hội thích ứng với hoàn cảnh mới, với điều kiện lịch sử và quốc tế mới. Những thành tựu to lớn của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vẫn giữ được những nguyên tắc của CNXH”. Nó càng chứng tỏ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong một đất nước hòa bình và ổn định, với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng khởi sắc. Thành công của Việt Nam cũng là thành công của toàn thế giới. Mô hình của Việt Nam đã đạt đến những thành tựu của CNXH”. Với những thành tựu mà đất nước đạt được trong hơn 30 năm đổi mới chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất đã lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng ta luôn luôn nhất quán, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Về giá trị tổ chức và triển khai: Tác phẩm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước hiện nay và trong thời gian tới. Bài viết đem lại cách nhìn cụ thể, rõ ràng hơn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những bước đi tiếp theo trong quá trình phát triển của dân tộc, không chỉ thể hiện trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn được Đảng và Nhân dân ta minh chứng bằng thực tiễn cách mạng, thực tiễn sự nghiệp đổi mới với những thành tựu to lớn mà tác giả đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Không có một lực lựng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan, đơn vị, chức trách của mỗi cán bộ, đảng viên. Đường lối đổi mới, tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước đã xác định trong Đại hội XIII của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, đó là cơ sở để mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác tư tưởng, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đến quần chúng nhân dân. Với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm lãnh đạo quý báu của Đảng, sự ủng hộ, chung sức, đồng lòng của nhân dân, khát vọng về một đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN sẽ trở thành hiện thực. Từ đó, mỗi người thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân ta vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào sự đúng đắn của đường lối đổi mới.

Tóm lại, với những nội dung, giá trị về lý luận và thực tiễn, Bài viết của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “Một số vấn đề lý luận và thực tiển về CNXH và con đường đi lên CNXH ỏ Việt Nam” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo mà còn cho thấy bản lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế. Nghiên cứu và quán triệt sâu sắc Bài viết sẽ góp phần giúp mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên CNXH, rèn luyện thêm bản lĩnh, làm tròn trách nhiệm cao nhất, luôn giữ vững niềm tin và tuyệt đối không dao động, ngả nghiêng trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Bài viết còn là thông điệp truyền cảm hứng đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, quê hương, khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

ĐỖ TẤN TÀI

 

* Bài viết được đăng phục vụ dự thi Giải Báo chí cấp tỉnh về xây dựng Đảng (Búa liềm vàng) lần thứ III-năm 2024. Tòa soạn không tham gia biên tập, tôn trọng tuyệt đối chính kiến, nội dung, hình ảnh bài viết đã được cơ quan chủ quản thống nhất thông qua.

Viết bình luận mới

Xem thêm

ĐIỀU TUYỆT VỜI CỦA CHÚNG TA

17:43 25/10/2024

Nền tảng tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất sống còn của Đảng.

VAI TRÒ THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ, TIẾP CẬN TỪ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH – THỰC TIỄN TỈNH HẬU GIANG

17:38 25/10/2024

Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của Việt Nam, mà của cả các nước trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của một xã hội, một quốc gia.

PHÁT HUY TRÁCH NHIỆM NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU

08:34 10/10/2024

Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của các cơ quan Nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện trong tổ chức Nhà nước của ta” trong (Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.12, tr.379). Theo Người, quyền dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực của

TRÁCH NHIỆM TIẾP DÂN CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CẤP UỶ

23:26 09/10/2024

Thực hiện Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh,

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG NHÀ TRƯỜNG

23:23 09/10/2024

Trường THCS Thuận Hưng tọa lạc tại cửa ngỏ của con đường Tỉnh lộ xuôi về huyện Long Mỹ tỉnh Hậu Giang. Chi bộ nhà trường thuộc Đảng ủy xã Thuận Hưng.

Tâm sự của đôi Bạn đời kháng chiến

23:20 09/10/2024

Tôi sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Bắc-Nam sum họp một nhà.

HỌC VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH “NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM”CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH THUẬN ĐÔNG 1

23:18 09/10/2024

Hồ Chí Minh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta. Con người, cuộc đời, sự nghiệp của Người luôn là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo.

SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI” TRƯỜNG THCS CHIÊM THÀNH TẤN, HUYỆN LONG MỸ

23:12 09/10/2024

Giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.

BÀI DỰ THI GIẢI BÚA LIỀM VÀNG

23:05 09/10/2024

Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, được xây dựng và trưởng thành từ đội ngũ đảng viên.

BÀI VIẾT THAM GIA DỰ THI GIẢI BÚA LIỀM VÀNG

23:01 09/10/2024

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc lấy gương người tốt việc tốt để tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo quần chúng nhân dân, với nguyện vọng thế hệ sau sẽ tiếp bước thế hệ trước để phát huy tốt nhất ý chí, tinh thần trách nhiệm,

THÔNG TIN CẦN BIẾT
Nhiều mây, có mưa, có nơi mưa vừa, mưa to và rải rác có dông. Gió tây nam cấp 3. Trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét và gió giật mạnh.

HĐND tỉnh khảo sát tình hình thực hiện "Đề án Hậu Giang xanh"

19:57 21/11/2024

(HG) - Ngày 21-11, HĐND tỉnh tổ chức đoàn khảo sát tình hình thực hiện “Đề án Hậu Giang xanh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” tại huyện Châu Thành A. Bà Mã Thị Tươi, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, làm Trưởng đoàn.

Trung ương Hội nông dân Việt Nam thăm mô hình sản xuất của nông dân Hậu Giang

18:36 21/11/2024

(HG) – Chiều ngày 21-11, ông Phan Như Nguyện, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Nông dân Việt Nam;

Hợp tác nhiều nhiệm vụ khoa học công nghệ trong nông nghiệp với Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

18:20 21/11/2024

(HG) - Nhằm tăng cường trao đổi, thảo luận và triển khai thực hiện các nội dung ký kết hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp và tham quan một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Hậu Giang,

Cần quyết liệt trong công tác giải phóng mặt bằng dự án Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh

17:08 21/11/2024

(HG) - Sáng ngày 21-11, tại Khu công nghiệp (KCN) Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, ông Nguyễn Văn Hòa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, đã có buổi làm việc để kiểm tra tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng (GPMB) KCN Tân Phú Thạnh.