GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO VÀ CBQL GIÁO DỤC TỈNH HẬU GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Thứ Hai, ngày 30/09/2024 | 06:35

Trong những năm qua, giáo dục đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, những kết quả đó chưa tương xứng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chưa thực sự đáp ứng kỳ vọng của xã hội. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém này, tận dụng được cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD), coi đây là khâu then chốt trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Có thể khái quát một số quan điểm về chất lượng giáo dục và đảm bảo chất lượng giáo dục như sau:

Giáo dục là hoạt động hướng tới con người, thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội. Vì thế, giáo dục là hiện tượng xã hội, diễn ra quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và các hệ thống kí hiệu khác nhằm kế thừa, duy trì sự tồn tại, tiến hóa và phát triển nhân loại.

Chất lượng giáo dục: Trong giáo dục, các hoạt động giáo dục đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một vòng tròn khép kín, đầu ra của hoạt động trước là đầu vào của hoạt động sau. Vì thế, hoạt động giáo dục trước có chất lượng là điều kiện cần cho hoạt động giáo dục sau có chất lượng và đầu ra có chất lượng; một trong các hoạt động giáo dục không đảm bảo chất lượng, đầu ra của cả quá trình rất khó hoặc không thể đạt chuẩn đầu ra. Như vậy, tất cả các hoạt động có chất lượng thì sản phẩm đầu ra mới có chất lượng. Chất lượng giáo dục được thể hiện ở chất lượng của tất cả các hoạt động giáo dục, là chất lượng đầu vào, chất lượng quá trình và chất lượng đầu ra được đặt trong bối cảnh cụ thể. Chất lượng giáo dục thể hiện ở mức độ đạt được của người học về chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ; khả năng thích ứng trong môi trường mới và khả năng tìm được vị trí việc làm trong tương lai. Vì vậy, chất lượng giáo dục là sự phù hợp năng lực của học sinh với chuẩn đầu ra của một quá trình hay một chương trình giáo dục.

Đảm bảo chất lượng giáo dục: Trên quan điểm về đảm bảo chất lượng trong quản lý kinh tế, đảm bảo chất lượng trong giáo dục có thể hiểu là hình thức quản lý chất lượng được thực hiện trước và trong quá trình giáo dục. Đảm bảo chất lượng nhằm phòng ngừa sự xuất hiện sai sót trong quá trình giáo dục tránh tạo ra những “sản phẩm giáo dục” có chất lượng thấp. Tiêu chuẩn Việt Nam xác định: Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong một hệ chất lượng và được chứng minh là đủ sức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng. Đảm bảo chất lượng là phương tiện tạo ra sản phẩm không có sai sót do lỗi trong quá trình sản xuất hay giáo dục gây ra vì thế chất lượng được giao phó cho mỗi người tham gia trong quá trình sản xuất hay giáo dục. Từ ý tưởng này mà người ta quan tâm đến việc tạo nên hệ thống quy chuẩn chất lượng khi áp dụng mô hình đảm bảo chất lượng để những người trực tiếp làm ra sản phẩm phải tự nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng, biết cách làm thế nào để đạt được chất lượng cao hơn và tự mình mong muốn làm điều đó, hơn thế nữa còn lôi kéo, vận động người khác cùng làm tốt như họ hoặc làm tốt hơn bản thân họ. Như vậy, đảm bảo chất lượng giáo dục là một hệ thống các biện pháp, các hoạt động có kế hoạch được tiến hành trong và ngoài nhà trường được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo ra sự tin tưởng thoả đáng rằng các hoạt động và sản phẩm (học sinh) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu của về chất lượng giáo dục theo chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục.

Thực trạng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Hậu Giang

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tri thức đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục và đào tạo là chìa khóa cho sự thành công của mỗi quốc gia. Nhìn vào hệ thống giáo dục có thể dự đoán được tương lai của một đất nước. Nhìn vào đội ngũ nhà giáo và CBQLGD có thể đánh giá được chất lượng của một nền giáo dục. Vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo hướng chuẩn hóa, bảo đảm đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.

Hiện nay, cả nước có gần 1,5 triệu nhà giáo và CBQLGD, trong đó đội ngũ CBQLGD chiếm khoảng 10%. Tỷ lệ đội ngũ CBQLGD ở các cấp như sau: khoảng 18% ở giáo dục mầm non, 65% ở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, 6% ở giáo dục cao đẳng, đại học, 11% ở cơ quan quản lý giáo dục các cấp(1). Đội ngũ CBQLGD phần lớn là những nhà giáo khá, giỏi được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý, đa số là những người năng động, thích ứng nhanh với sự đổi mới giáo dục và đào tạo. Nhiều thầy, cô giáo, CBQLGD đã nỗ lực vượt khó vươn lên hoàn thiện về chuyên môn, nghiệp vụ, là tấm gương sáng về đạo đức, sự tận tụy, tâm huyết với nghề. Có những thầy, cô đã hy sinh cả tuổi xuân của mình, hết lòng vì học sinh, bám trường, bám lớp, trở thành người cha, người mẹ thứ hai của các em ở những vùng sâu, vùng xa, vùng điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, biên giới, hải đảo.

Khi mới chia tách tỉnh, Hậu Giang chỉ có 260 trường học mầm non và phổ thông, chỉ có 8 trường chuẩn quốc gia, còn 27 xã chưa có trường mầm non, mẫu giáo, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn còn rất thấp so với quy định, chỉ có 2 thạc sĩ. Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học thiếu trầm trọng. Chất lượng giáo dục thấp so với cả nước và vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ học sinh bỏ học cao…. Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đã phát triển toàn diện, tỉnh dẫn đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long về xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, với tỷ lệ hiện nay là 83,17%, (tăng gần 80% so với năm 2004), tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, tăng tỷ lệ học sinh khá giỏi, giảm học sinh yếu kém. Toàn ngành hiện có 283 thạc sĩ (năm 2004 có 2 thạc sĩ) và 123 Nhà giáo ưu tú…

Những năm đầu mới chia tách tỉnh, đứng trước muôn vàn khó khăn ngành giáo dục tỉnh Hậu Giang  được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, kịp thời của Lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự hỗ trợ có hiệu quả của các ban ngành đoàn thể, cấp ủy, chính quyền các cấp. Sau 20 năm vượt khó, giờ đây ngành giáo dục và đào tạo đã phát triển toàn diện: có mạng lưới trường lớp kiện toàn. Việc xóa các điểm trường lẻ, sáp nhập các cơ sở giáo dục có quy mô nhỏ được thực hiện hiệu quả phù hợp với thực tiễn. Đến năm 2023, toàn tỉnh có 262/315 trường học từ mầm non đến THPT đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ đạt 83,17%. Bên cạnh việc đầu tư về mạng lưới trường, lớp học ngành đã tích cực tham mưu để từng bước hoàn thiện các công trình phụ như nhà đa năng, hàng rào, sân chơi, nhà vệ sinh, hệ thống nước sạch,… đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí cho học sinh đặc biệt là đã hoàn thành 100% việc xây dựng nhà vệ sinh cho các trường mầm non, phổ thông trên địa bàn tỉnh.

Ngành giáo dục có được đội ngũ nhà giáo đầy tâm huyết, yêu nghề và sẵn sàng cống hiến trí, lực vì sự nghiệp “trồng người”. Người ta thường nói “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, điều đó rất đúng với giáo dục tỉnh mình. Khó khăn không làm nản chân những nhà giáo yêu nghề. Từ chỗ thiếu, yếu đến nay, toàn ngành hiện có 9.780 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Trong đó, tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp học mầm non đạt chuẩn 96,55%, trên chuẩn 71,23%; cấp tiểu học đạt chuẩn 82,30%, trên chuẩn 0,25%; cấp THCS đạt chuẩn 91,06%, trên chuẩn 0,98%; cấp THPT đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 20,61%; trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 13,33%. Toàn ngành hiện có 283 thạc sĩ và 123 Nhà giáo ưu tú. Đội ngũ nhà giáo chủ động, tự học, sáng tạo, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin, phần mềm giáo dục vào trong giảng dạy và quản lý giáo dục

Nguyễn Hoài Thúy Hằng, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo trao học bổng cho HS vượt khó học giỏi.

Điểm mạnh của giáo dục Hậu Giang là phong trào xã hội hóa giáo dục, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Công tác huy động từ các lực lượng xã hội đã đóng góp hàng trăm tỷ đồng; vận động Nhân dân hiến trên 70.400m2 đất để xây dựng trường lớp học, vận động quỹ khuyến học, khuyến tài… giúp hàng chục nghìn học sinh viết tiếp ước mơ phát triển tương lai bằng con đường học vấn.

Phong trào thi đua “Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học” được quan tâm triển khai mạnh mẽ trong toàn ngành, đã có hàng trăm mô hình, giải pháp được công nhận cấp tỉnh, cấp bộ; hàng năm, ngành đã tổ chức thi giáo viên giỏi, giáo viên chủ nhiệm giỏi các cấp, thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia, đẩy mạnh phong trào nghiên cứu khoa học trong nhà trường… để tạo phong trào, động lực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh. Kỳ thi tốt nghiệp THPT hàng năm đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, kết quả trên 98,77% học sinh đậu tốt nghiệp năm 2023.

Bà Hồ Thu Ánh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh trao cờ cho 2 đơn vị dẫn đầu khối THPT trong phong trào thi đua yêu nước tỉnh Hậu Giang năm học 2022-2023.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành giáo dục tỉnh Hậu Giang vẫn còn không ít khó khăn, thách thức: mạng lưới trường, lớp học tuy đã được kiện toàn nhưng chưa thật tinh gọn, còn điểm phụ nên khó khăn trong việc quản lý và đầu tư phát triển. Tỷ lệ giáo viên/lớp bình quân chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Ngành còn thiếu giáo viên, nhất là giáo viên mầm non, giáo viên Tiếng Anh, Tin học cấp tiểu học, do nguyên nhân khách quan không có nguồn tuyển. Đầu tư thu hút xây dựng các trường tư thục được xem là giải pháp tối ưu nhưng khó thực hiện vì nhà đầu tư chưa mặn mà cho lĩnh vực giáo dục, nhất là đối với việc mở trường tư thục trên địa bàn tỉnh. Nguồn lực đầu tư chuyển đổi số chưa tương xứng với nhu cầu thực tế của ngành…

Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục tỉnh Hậu Giang

Chiến lược phát triển giáo dục và chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam.

Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đại hội XIII xác định, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế là một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Theo đó, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua in-tơ-nét, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, khả năng ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, có tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Như vậy, chiến lược phát triển giáo dục trong Đại hội XIII của Đảng là sự tiếp tục quan điểm đổi mới giáo dục ở các Đại hội, Hội nghị Trung ương của nhiệm kỳ trước, nhưng được bổ sung, phát triển, làm rõ, sâu sắc hơn nhiều nội dung mới, thể hiện quyết tâm cao hơn, quyết liệt hơn để tạo bước đột phá đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển. Nội dung giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, chú trọng đến kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; coi trọng giáo dục phẩm chất đạo đức, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy giá trị đó trong bối cảnh mới, với khát vọng cống hiến, đưa đất nước phát triển.

Đại hội XIII của Đảng đặc biệt coi trọng vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đối với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Nếu Đại hội XII của Đảng đề ra chủ trương “phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới” thì Đại hội XIII khẳng định giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD là khâu then chốt có tính quyết định để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”; “Đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, cần quán triệt quan điểm phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; triển khai có hiệu quả Quyết định số 33/QĐ-TTg, ngày 8-1-2019, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non giai đoạn 2018 - 2025”, Dự án “Chương trình phát triển các trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông” . Theo đó, mục tiêu, phương hướng chung là đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo, tiến tới tất cả giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học - công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hội thảo "Nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018".

Giáo dục và đào tạo được tỉnh  Hậu Giang xác định là ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống chính trị và người dân trong tỉnh. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Giáo dục tỉnh Hậu Giang được đổi mới căn bản và toàn diện; chất lượng giáo dục được nâng cao và đạt khá trong khu vực, phấn đấu đến năm 2025 đạt 95% các chỉ tiêu giáo dục và đào tạo của cả nước, đến năm 2030 đạt 100%. Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. Trên cơ sở đó, tập trung một số giải pháp như sau:

Một là, nâng cao nhận thức các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQLGD và GV

- Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp tục quán triệt quan điểm phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứ XIV, Chương trình số 50-CTr/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; xây dựng đội ngũ GV và CBQLGD các cấp học, bậc học bảo đảm chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, về thực hiện Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông 2018 trên địa bàn tỉnh, nhằm thông tin đến đội ngũ GV tự giác thực hiện có kết quả lộ trình thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên.

- Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp trong chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh, vai trò nòng cốt của ngành giáo dục và đào tạo, trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc đảm bảo đủ số lượng GV theo định mức quy định đối với mỗi cấp học, bảo đảm thực hiện đúng phương châm “Có học sinh thì phải có giáo viên đứng lớp”.

- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trường học, nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ GV và CBQLGD.

Hai là,  tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong phát triển đội ngũ GV và CBQLGD các cấp

- Tiếp tục thự c hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. Thực hiện lồng ghép các giải pháp trong các Chương trình, Đề án và các Kế hoạch đã được phê duyệt của tỉnh.

- Xây dựng và hoàn thiện Đề án Nâng cao chất lượng trường THPT chuyên và một số trường trọng điểm trong tỉnh, nghiên cứu tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách đặc thù riêng đối với đội ngũ GV, CBQLGD các cấp học, đặc biệt là đội ngũ GV trường THPT chuyên, đội ngũ GV cốt cán trong tỉnh, đội ngũ GV cấp học mầm non trong tỉnh.

- Có giải pháp chính sách phù hợp để giải quyết triệt để tình trạng thừa, thiếu GV trong cùng một địa phương và giữa các địa phương trong tỉnh.

Ba là,  thực hiện Tuyển dụng đội ngũ GV, đảm bảo số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập

- Trên cơ sở tổng số lượng người làm việc được giao hằng năm của cấp có thẩm quyền, Sở Giáo dục và Đào tạo và các địa phương tiến hành xây dựng Kế hoạch quản lý biên chế, rà soát số lượng người làm việc hiện có ở cấp MN, TH, THCS, THPT để có kế hoạch tuyển dụng phù hợp, tuyển dụng khách quan, minh bạch, đủ theo cơ cấu từng môn học, trong đó ưu tiên tuyển dụng giáo viên môn Tiếng Anh, Tin học ở các cấp học khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, nhằm bảo đảm không để xảy ra tình trạng thiếu GV khi thực hiện Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. Đảm bảo có học sinh thì phải có giáo viên đứng lớp. Trường hợp nguồn dự tuyển thiếu so với chỉ tiêu tuyển dụng, thì tiến hành ký hợp đồng lao động theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 của Chính phủ về hợp đồng đối với một số loại công việc trong cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập, theo đó số lượng ký kết hợp đồng được Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm.

- Xây dựng kế hoạch điều động GV từ trường thừa sang trường thiếu GV sau khi sắp xếp, sáp nhập trường lớp theo lộ trình từng năm theo Đề án sắp xếp các đơn vị sự nghiệp đã được UBND tỉnh phê duyệt để sử dụng, bố trí đội ngũ GV một cách hợp lý.

- Tiếp tục rà soát, sắp xếp tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, để có thêm biên chế bổ sung cho ngành giáo dục để tuyển dụng đủ số lượng giáo viên theo định mức, nhằm đáp ứng thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến chính sách thu hút trong việc tuyển dụng, tiếp nhận GV chuyển công tác từ ngoài tỉnh đối với GV dạy Tiếng Anh, Tin học cấp TH và GV dạy Âm nhạc, Mỹ thuật theo Nghị quyết số 12/2022/NQ-HĐND ngày 06/7/2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hậu Giang quy định chính sách thu hút GV giảng dạy các môn Tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc, Mĩ Thuật tại các cơ sở giáo dục phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.

- Trong bối cảnh khan hiếm nguồn dự tuyển như hiện nay, nhu cầu đội ngũ GV trong cả nước là rất lớn, đồng thời công tác tuyển sinh ngành sư phạm đã được thực hiện chặt chẽ theo Nghị định số 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm, ngành giáo dục và đào tạo nghiên cứu đề xuất đặt hàng đào tạo GV các cấp học, đặc biệt giáo viên cấp tiểu học.

Bốn là,  hoàn thiện khung năng lực cho đội ngũ CBQL, GV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Thực hiện có hiệu quả lộ trình nâng trình độ chuẩn đào tạo của giáo viên MN, TH, THCS theo quy định tại Nghị định số 71/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định lộ trình thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, THCS và Kế hoạch số 99/KH-UBND ngày 14/5/2021 của UBND tỉnh Hậu Giang thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của GV mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025.

- Đào tạo, bồi dưỡng GV cấp THCS dạy môn Khoa học tự nhiên, môn Lịch sử - Địa lý; GV cấp TH dạy môn Tin học - Công nghệ theo quy định Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

- Tiếp tục cử GV tham gia bồi dưỡng theo Kế hoạch số 2393/KH-UBND ngày 08/10/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đào tạo, bồi dưỡng GV cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.

- Tiếp tục cử GV quy hoạch CBQL tham gia các lớp đào tạo trung cấp lý luận chính trị, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Trường Chính trị tỉnh hoàn thành các lớp trung cấp lý luận chính trị dành riêng cho ngành giáo dục.

- Tiếp tục cử GV tham gia các lớp sau đại học theo số lượng phê duyệt hàng năm của UBND tỉnh.

- Tổ chức các lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức về quản lý giáo dục cho đội ngũ CBQL các cấp học, đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.

- Đa dạng hóa hình thức đào tạo: Đào tạo trong các cơ sở đào tạo, đào tạo trực tiếp, trực tuyến qua mạng (e-learning); khuyến khích giáo viên và cán bộ quản lý tăng cường tự bồi dưỡng, tham gia hội thảo chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn tại trường, cụm trường.

Năm là,  đẩy mạnh các hoạt động nâng cao đạo đức nghề nghiệp đối với CBQL và GV

- Xây dựng kế hoạch Bồi dưỡng thường xuyên, tổ chức sinh hoạt chuyên đề về nâng cao đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nhà giáo và việc áp dụng hiệu quả các phương pháp giáo dục tích cực trong nhà trường.

- Gắn các hoạt động chuyên đề với việc lồng ghép giả định các tình huống thực tế cho GV, thực hành xử lý, rèn luyện kinh nghiệm và rút ra bài học cho bản thân.

- Quan tâm và kịp thời nắm bắt tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ GV ổn định đời sống, thực hiện tốt nhiệm vụ.

- Tổ chức đánh giá, rà soát, bố trí đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên phù hợp với chuyên môn, năng lực cá nhân, đảm bảo trong cơ sở giáo dục không có GV và CBQLGD vi phạm đạo đức nhà giáo, vi phạm quy chế chuyên môn nghiệp vụ.

- Nêu cao tính kỉ luật, trách nhiệm nêu gương trong đội ngũ CBQLGD trước tập thể GV, nhân viên trong đơn vị. Mỗi GV phải luôn rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để xứng đáng với sự tôn vinh và niềm tin yêu của xã hội. Ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn, GV phải đầu tư nhiều hơn vào phương pháp, kỹ năng và thủ thuật dạy học.

Sáu là,  đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục

- Tập trung huy động các nguồn lực trong xã hội, khuyến khích đầu tư mở các trường tư thục ở cấp học, nhằm giảm áp lực cho các trường công lập, nhất là vấn đề quy mô học sinh tăng nhưng phải thực hiện tinh giản biên chế.

- Tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ kinh phí, biên chế tại các trường mầm non, phổ thông công lập có năng lực xã hội hóa, có đầy đủ cơ sở vật chất, có đội ngũ GV, cán bộ quản lý đạt chất lượng cao.

Bảy là,  tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát và thực hiện chế độ báo cáo

- Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục; thanh tra, kiểm tra, giám sát về công tác quản lý, sử dụng, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, phân công công tác đội ngũ GV; công tác tham mưu quy hoạch, rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục; xử lý nghiêm cơ sở giáo dục vi phạm quy định về quản lý, sử dụng đội ngũ GV.

- Thường xuyên cập nhật thông tin về đội ngũ GV và CBQLGD thuộc phạm vi quản lý vào cơ sở dữ liệu ngành giáo dục. Thực hiện đầy đủ và kịp thời chế độ báo cáo định kỳ hằng năm và đột xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo theo quy định.

Những cơ sở giáo dục còn lại cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu hướng chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư. Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện. Tự chủ giúp cho các cơ sở giáo dục hoạt động năng động, linh hoạt trong môi trường cạnh tranh, là động lực to lớn cho sự đổi mới và phát triển của cơ sở giáo dục. Bởi, chất lượng, uy tín của cơ sở giáo dục tự chủ có quan hệ mật thiết đến cuộc sống của nhà giáo và CBQLGD ở đó. Thu nhập của nhà giáo và CBQLGD được xây dựng trên uy tín và chất lượng của cơ sở giáo dục. Để tồn tại và phát triển, các cơ sở giáo dục tự chủ phải hoạt động theo cơ chế quản trị hiện đại, xây dựng cơ chế đặc thù để tuyển dụng người tài, xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, thu nhập của người lao động dựa trên sự đóng góp vào sự phát triển của đơn vị. Đó là động lực để nhà giáo và CBQLGD nỗ lực trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

TRIỆU THỊ LỆ TIÊN

 

* Bài viết được đăng phục vụ dự thi Giải Báo chí cấp tỉnh về xây dựng Đảng (Búa liềm vàng) lần thứ III-năm 2024. Tòa soạn không tham gia biên tập, tôn trọng tuyệt đối chính kiến, nội dung, hình ảnh bài viết đã được cơ quan chủ quản thống nhất thông qua. 

Viết bình luận mới

Xem thêm

ĐIỀU TUYỆT VỜI CỦA CHÚNG TA

17:43 25/10/2024

Nền tảng tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất sống còn của Đảng.

VAI TRÒ THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ, TIẾP CẬN TỪ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH – THỰC TIỄN TỈNH HẬU GIANG

17:38 25/10/2024

Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của Việt Nam, mà của cả các nước trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của một xã hội, một quốc gia.

PHÁT HUY TRÁCH NHIỆM NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU

08:34 10/10/2024

Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của các cơ quan Nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện trong tổ chức Nhà nước của ta” trong (Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.12, tr.379). Theo Người, quyền dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực của

TRÁCH NHIỆM TIẾP DÂN CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CẤP UỶ

23:26 09/10/2024

Thực hiện Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh,

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG NHÀ TRƯỜNG

23:23 09/10/2024

Trường THCS Thuận Hưng tọa lạc tại cửa ngỏ của con đường Tỉnh lộ xuôi về huyện Long Mỹ tỉnh Hậu Giang. Chi bộ nhà trường thuộc Đảng ủy xã Thuận Hưng.

Tâm sự của đôi Bạn đời kháng chiến

23:20 09/10/2024

Tôi sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Bắc-Nam sum họp một nhà.

HỌC VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH “NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM”CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH THUẬN ĐÔNG 1

23:18 09/10/2024

Hồ Chí Minh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta. Con người, cuộc đời, sự nghiệp của Người luôn là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo.

SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI” TRƯỜNG THCS CHIÊM THÀNH TẤN, HUYỆN LONG MỸ

23:12 09/10/2024

Giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.

BÀI DỰ THI GIẢI BÚA LIỀM VÀNG

23:05 09/10/2024

Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, được xây dựng và trưởng thành từ đội ngũ đảng viên.

BÀI VIẾT THAM GIA DỰ THI GIẢI BÚA LIỀM VÀNG

23:01 09/10/2024

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc lấy gương người tốt việc tốt để tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo quần chúng nhân dân, với nguyện vọng thế hệ sau sẽ tiếp bước thế hệ trước để phát huy tốt nhất ý chí, tinh thần trách nhiệm,

THÔNG TIN CẦN BIẾT
Nhiều mây, có mưa, có nơi mưa vừa, mưa to và rải rác có dông. Gió tây nam cấp 3. Trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét và gió giật mạnh.

Ông Lê Tiến Châu tặng cho Hậu Giang 800 triệu đồng thực hiện an sinh xã hội

20:15 23/11/2024

(HG) – Chiều muộn ngày 23-11, ông Trần Văn Huyến, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, tiếp và làm việc với ông Lê Tiến Châu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, đến hỗ trợ cho công tác an sinh xã hội của tỉnh.

Khánh thành cầu nông thôn Khang Đức trị giá trên 1 tỉ đồng

16:10 23/11/2024

(HGO) - Quỹ Nam Phương cùng Liên Hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh, UBND thị trấn Cái Tắc (huyện Châu Thành A) vừa phối hợp tổ chức Lễ khánh thành cầu Khang Đức nối liền 2 ấp Tân Phú A và Tân Long A của thị trấn Cái Tắc.

Mô hình lúa chất lượng cao giúp người dân ĐBSCL giảm chi phí, tăng năng suất và lợi nhuận

13:29 23/11/2024

(HG) - Sáng ngày 23-11, tại thành phố Cần Thơ, Báo Nông nghiệp Việt Nam phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Giải pháp nhân rộng các mô hình thí điểm thành công của Đề án phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030”.

Tuyên truyền sâu rộng để người dân chung tay bảo vệ môi trường

11:09 23/11/2024

(HGO) - Đoàn khảo sát do bà Mã Thị Tươi, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, làm Trưởng đoàn vừa có buổi làm việc với UBND huyện Long Mỹ về tình hình thực hiện “Đề án Hậu Giang xanh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.