NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN - “LÁ CHẮN THÉP” CỦA ĐẢNG

06/10/2023 | 15:24 GMT+7

Xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. muốn được “dân chúng đồng lòng” thì trước hết phải tạo được niềm tin của nhân dân, có được niềm tin của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước sẽ luôn được nhân dân ủng hộ và nghiêm chỉnh chấp hành, triển khai thực hiện

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay là củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước ...”

Bài 1: NƠI NIỀM TIN BẮT ĐẦU

Nếu như có ai đó hỏi tôi rằng: Nhân dân ta dựa vào cơ sở nào để xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa?

Có lẽ đối với câu hỏi nầy, tôi xin được phép trả lời rằng:

 “Cơ sở mà nhân dân ta dựa vào đó là Đảng cộng sản Việt Nam, bởi vì ….. ở nơi đâu có Đảng, ở đó sẽ có niềm tin, .......và ..........Nơi nào có niềm tin vào Đảng......... thì nơi đó sẽ có được thắng lợi, ...cách mạng nhất định sẽ thành công”.

Để minh chứng cho điều đó, chúng ta hãy bắt đầu ngược dòng lịch sử từ khi Đảng ta ra đời vào ngày 03/02/1930.

Với bản chất là một Đảng chân chính ra đời là để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với mục đích chính nghĩa ấy, từ khi được thành lập Đảng ta đã bắt đầu tạo được niềm tin sâu sắc trong lòng nhân dân, Kể từ đó nhân dân ta luôn một lòng đi theo Đảng; biến niềm tin thành sức mạnh, phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa anh hùng cách mạng gắn bó cùng với Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng Đất Nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Kể từ khi ra đời đến nay, dù trong bất kỳ thời điểm, giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta cũng luôn luôn trung thành tuyệt đối với lợi ích của quốc gia, dân tộc, tận tâm, tận tụy phụng sự Tổ Quốc, phục vụ nhân dân, giữ vai trò trọng yếu làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam, đó cũng là “mắt xích” quan trọng, không thể thiếu để gắn kết niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. 

Như vậy: Niềm tin của nhân dân dành cho Đảng được sinh ra và bồi đắp từ ý chí, tâm tư, nguyện vọng tích cực của nhân dân, luôn tồn tại, hiện hữu như một “lá chắn thép” kiên cố mà nhân dân dành cho Đảng, trở thành một bộ phận tồn tại dưới dạng hình thái ý thức xã hội của Đảng, bảo vệ Đảng, và là nhân tố quan trọng để Đảng lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước.

Cụ thể trong Giai đoạn 1930 – 1975, với sự tin tưởng tuyệt đối, đồng lòng ủng hộ của nhân dân, Đảng đã lãnh đạo cách mạng đấu tranh hoàn thành sứ mệnh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất Đất nước.

Nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền Giai đoạn (1930 - 1945)

Vừa mới ra đời, Đảng ta đã tỏ rõ quyết tâm lãnh đạo, đấu tranh giành lại độc lập tự do cho nhân dân, nên đã nhanh chóng tập hợp nhân dân, củng cố khối liên minh công - nông, thúc đẩy phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, tạo nên 03 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn mà đỉnh cao là sự thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945:     

- Trước hết đó là cao trào cách mạng (1930 – 1931) mà đỉnh cao là cao trào xô viết – nghệ tĩnh, Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng quần chúng liên tục tạo áp lực mạnh mẽ và “giáng” những “đòn” tiến công liên tiếp trên khắp các mặt trận, làm rung chuyển chính quyền Pháp và tay sai, giành lấy những thắng lợi nhất định, thành lập một số Chính quyền Xô viết lâm thời ở nhiều nơi.

- Thứ hai là cao trào cách mạng (1936 - 1939): Đảng ta tiếp tục cho thấy sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo cách mạng, làm cho quần chúng tự giác ngộ, tự nguyện trở thành lực lượng chính trị rộng khắp, đoàn kết lại, đấu tranh bằng nhiều hình thức, kể cả công khai, hợp pháp...  buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một vài yêu sách về dân sinh và dân chủ.

- Dưới sự lãnh đạo kiên quyết, đúng đắn của Đảng, các Cao trào cách mạng kể từ năm 1939 tiếp tục dâng cao mạnh mẽ, “thế như chẻ tre” với tần xuất ngày càng “dày đặt”, lan toả khắp nơi, mà đỉnh điểm là cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, thành công lật đổ chính quyền thực dân, xoá bỏ chế độ phong kiến,  thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, chỉ mới vừa tròn đúng 15 năm, kể từ khi ra đời Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo nhân dân giành lấy những chiến thắng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, không chỉ có vai trò “nền móng” - là tiền đề cho những thành công của cách mạng sau nầy, mà đây còn là sự khẳng định chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất được đông đảo quần chúng nhân dân tuyệt đối tin tưởng, tín nhiệm, đảm bảo đủ uy tín và năng lực lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi chông gai, thử thách đưa cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – hình tượng cao đẹp bất diệt trong lòng cán bộ, đảng viên và  nhân dân.

Nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước  Giai đoạn (1946 - 1975)

- Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống ngoại xâm giai đoạn (1945 - 1954)

Trong những năm 1945 - 1946, Thực dân Pháp vẫn không cam tâm từ bỏ ý đồ xâm chiếm Việt Nam, chúng âm mưu và tiến hành quay lại xâm lược 01 lần nữa, mở đầu bằng việc nổ súng tiến công vào Nam bộ và Nam trung Bộ vào tháng 12/1946. Lúc bấy giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vừa lãnh đạo xây dựng chính quyền nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, chăm lo mọi mặt cho đời sống mới của nhân dân vừa phải chông giặc ngoại xâm (lúc nầy ở Việt Nam có trên 30 vạn quân ngoại quốc gồm: Anh, Pháp, Tưởng, Nhật) và các thế lực phản động, cơ hội: việt cách, Việt quốc, …

Nhân dân việt nam luôn gắn bó và vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản việt nam.

Đứng trước thực tiễn “nghìn cân treo sợi tóc” ấy, nhân dân vẫn đặt trọn niềm tin vào Đảng; không phụ tấm lòng quý báu ấy, Đảng và Bác Hồ quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, tranh thủ sự ủng hộ và chi viện của các tầng lớp nhân dân, chủ động thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trên tất cả các mặt trận, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, từng bước trấn áp các thế lực phản loạn, vững vàng đưa cách mạng Việt nam vượt qua tình thế nguy cấp. liên tiếp đánh bại các mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng gây chấn động thế giới, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), bắt buộc Chính quyền Pháp không còn cách nào khác là phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt hoàn toàn và triệt để sự thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Đảng lãnh đạo Miền Nam kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn (1954 - 1975)

Kể từ ngày 10/10/1954 Miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu quá trình khôi phục và phát triển kinh tế.

Trong Lúc nầy ở miền Nam, đế quốc Mỹ với âm mưu ngăn chặn sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở đông nam châu á, nên có ý đồ biến Miền nam việt Nam thành “căn cứ” quân sự của chúng, và Mỹ đã đơn phương phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đuổi Thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam.

Do đó Trong giai đoạn nầy Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh giành độc lập tự do ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Với sự kiên định, trung thành tuyệt đối vì lợi ích quốc gia, dân tộc, Đảng ta không ngừng nâng cao vị thế, uy tín và niềm tin của nhân dân, từ đó luôn có sự đồng lòng, đoàn kết, gắn bó mật thiết và ngày càng khẳng định vai trò là “hạt nhân” tập hợp và lãnh đạo nhân dân đoàn kết kháng chiến chống giặc ngoại xâm, quyết tâm, kiên trì giành lấy độc lập, tự do cho nhân dân, thống nhất Tổ Quốc.

Bước vào thời kỳ kháng chiến mà kẻ xâm lược lại là một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, nên Đảng ta không “tốc chiến, tốc thắng” mà tiến hành chủ trương kháng chiến trường kỳ (lâu dài), nhanh chóng ổn định miền Bắc, vừa làm căn cứ địa hậu phương, động viên, chi viện cho miền nam, vừa là trung tâm đề ra sách lược lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng kháng chiến trong cả nước. 

Nụ cười hạnh phúc của nhân dân khi có Đảng lãnh đạo.

Tuy nhiên với sự gắn bó, đồng lòng giữa Đảng và nhân dân ta, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng được xây dựng và củng cố vững chắc ở cả 03 vùng rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, kết hợp chặt chẽ với hoạt động đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang (với LLVT 03 thứ quân); giữa chiến tranh du kích và chiến tranh của bộ đội chủ lực, hình thành thế trận tiến công địch liên tục, bất ngờ, hiểm hóc, đánh địch mọi lúc, mọi nơi trên khắp các chiến trường, cả về quân sự và chính trị, làm suy yếu tinh thần chiến đấu của Mỹ - ngụy, buộc chúng từ thế chủ động, phải phân tán lực lượng để ứng phó. Chính quyền Mỹ - ngụy luôn bị lâm vào tình thế bị động chống đỡ, tạo nhiều sơ hở cho các lực lượng chiến đấu chính quy của Ta đẩy mạnh tiến công.

Với những chủ trương, sách lược đúng đắn, sáng suốt của Đảng và tinh thần yêu nước, không sợ hy sinh, bất chấp mọi gian khổ của dân tộc Việt Nam ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Chúng ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt” (giai đoạn 1954 – 1960), chiến tranh cục bộ (1961 – 1965), đánh bại 02 cuộc tiến công mùa khô năm 1965 – 1966, 1966 – 1967, 01 cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc lần thứ nhất giữa 1965 đến hết 1968, làm thất bại 01 phần chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và giành thắng lợi hoàn toàn từ giữa cuối năm 1974,...v...v....  đó là những bước ngoặc quan trọng, chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, mở màn tiến đánh Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã giành được toàn thắng vào ngày 30/4/1975, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ . miền Nam được giải phóng hoàn toàn. 

Trong khi miền nam  tập trung cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thì miền Bắc cũng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, và đã đạt được nhiều thắng lợi trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo làm hậu phương vững chắc liên tục chi viện lực lượng, vật chất cho Miền nam, góp phần giữ vai trò quyết định vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc chiến đấu đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mĩ  nguỵ. Sau 21 năm, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu làm tiền đề cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới.   

Đảng lãnh đạo nhân dân đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước (từ năm 1975 đến năm 1986 và từ năm 1986 đến nay)

Từ năm 1975 đến năm 1986  giai đoạn nầy, Đảng lãnh đạo Nhân dân ta, vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam. Tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất bước đầu, chuẩn bị cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. 

Sau khi thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay, với sự đồng thuận, đồng lòng của nhân dân, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn và đã đạt được nhiều  thành tựu to lớn mang tầm ý nghĩa lịch sử. Dần dần vượt qua những khủng hoảng về kinh tế, trở thành một nước có nền kinh tế đang phát triển với thu nhập trung bình; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét, các mô hình và cơ chế quản lý kinh tế mới được áp dụng rộng rãi, trong nhiều năm liền mức tăng trưởng kinh tế Nước ta luôn ở mức cao, Đến năm 2022, thì quy mô nền kinh tế của Việt Nam ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng; thu nhập bình quân đạt 95,6 triệu đồng/ người, đang từng bước tiến dần đến mục tiêu trở thành một nước có nền kinh tế phát triển với mức thu nhập bình quân đầu người ở mức cao. Song song với lĩnh vực kinh tế, Văn hoá, giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác  cũng phát triển mạnh mẽ, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, diện mạo đất nước ngày càng khang trang, cơ sở hạ tầng phát triển rộng khắp, chất lượng  đời sống của Nhân dân ngày càng được nâng cao rất nhiều so với trước. Vị thế và uy tin của Việt Nam trên thế giới được nâng cao, đến nay đã mở rộng Quan hệ đối ngoại với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Được sự đồng thuận của nhân dân, Đảng ta không ngừng được xây dựng, phát triển về cả số lượng và chất lượng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta chỉ có 500 đảng viên, đến Đại hội XIII, Đảng ta có tổng số gần 5,2 triệu đảng viên, các tổ chức cơ sở đảng trong cả nước luôn vững mạnh, đảm bảo đủ uy tín năng lực, từng đảng viên luôn gương mẫu về mọi mặt, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, hết lòng, hết sức trong phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt các nhiệm vụ  được giao, từ đó luôn giữ vững và củng cố niềm tin của nhân dân, mối quan hệ ngày càng thêm gắn bó, mật thiết.

Những thành tựu trong thực hiện đường lối đổi mới đất nước thời gian qua sẽ là tiền đề, là động lực cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định: niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu, khách quan, và sẽ bền vững theo thời gian, đó là nhân tố quan trọng làm cho mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn vững chắc, như một “lá chắn thép” kiên cố, mạnh mẽ không thể phá vở.

Tóm lại: ngay khi Đảng ta ra đời thì nhân dân đã đặt niềm tin vào Đảng, Đồng thời, để không phụ sự kỳ vọng ấy  Đảng cũng đã chọn lợi ích của Đất nước ta, của dân tộc ta làm mục tiêu phấn đấu trong suốt quá trình hoạt động của mình. Với mục đích, động cơ thuộc về chính nghĩa, Đảng và nhân dân đã xây dựng, phát triển mối quan hệ gắn bó mật thiết, đoàn kết ấy thành mối quan hệ bền chặt, tạo nên sức mạnh chân chính để một dân tộc nhỏ bé có thể làm nên thắng lợi trước các kẻ thù hùng mạnh, vững bước tiến về phía trước, mạnh mẽ vượt qua khó khăn, xây dựng Đất nước ngày càng tốt đẹp hơn. Tại Đại Hội XIII Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đánh giá: “…..Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới......Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”.

Với ý nghĩa ấy và với tất cả lòng kính trọng dành cho Đảng, thông qua bài viết nầy tôi xin phép được chia sẽ một thông điệp với cán bộ đảng viên và nhân dân, đó là:

 Thật vinh dự và tự hào khi Nước Việt Nam Ta có Đảng …… ở nơi đâu có Đảng, ..... ở nơi đó chắc chắn có niềm tin, ...........và ..............ở Nơi nào có niềm tin......... thì ở nơi đó sẽ có được ..... thắng lợi, cách mạng nhất định sẽ thành công.

Hãy cùng nhau lan toả thông điệp: Dù trong hoàn cảnh nào cũng hãy luôn vững niềm tin và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng!

TRẦN THANH VŨ – NGUYỄN THỊ HẠNH – HUỲNH THUÝ KIỀU

 

* Bài viết được đăng phục vụ dự thi Giải Báo chí cấp tỉnh về xây dựng Đảng (Búa liềm vàng) lần thứ II-năm 2023. Tòa soạn không tham gia biên tập, tôn trọng tuyệt đối chính kiến, nội dung, hình ảnh bài viết đã được cơ quan chủ quản thống nhất thông qua.

Viết bình luận mới
Tin cùng chuyên mục
Các tin khác
Xem thêm >>