Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - bản chất, thành quả, bài học và triển vọng

04/07/2017 | 08:40 GMT+7

(Tiếp theo)

Hưởng ứng “Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2017, tiến tới kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (5/9/1962 - 5/9/2017) và 40 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2017)”, Báo Hậu Giang giới thiệu đến Quý độc giả  nội dung về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

2. Thành quả cơ bản

Một là, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quy luật giành thắng lợi và nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào; là di sản văn hóa của hai dân tộc Việt Nam và Lào.

Trước hết, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quy luật giành thắng lợi của hai dân tộc Việt Nam - Lào.

Từ bước khởi đầu thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cấp lãnh đạo tối cao của hai nước đã thấu hiểu tính tất yếu khách quan gắn bó vận mệnh của hai dân tộc Việt Nam - Lào trên cùng trận tuyến đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Cả hai bên đều chung sức, chung lòng tận dụng được lợi thế tự nhiên hiếm có của dãy Trường Sơn hùng vĩ, kết hợp với biển cả, đất đai, tài nguyên thiên nhiên quý giá khác; khơi dậy tối đa tinh thần gan góc, ý chí đấu tranh quật cường, sáng tạo của hai cộng đồng dân tộc trong một khối thống nhất bền chặt, đấu tranh vì độc lập, tự do và thịnh vượng của đất nước dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam. Các nhân tố đó kết tụ thành quy luật giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Lào.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thể hiện rõ tính quy luật trong thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Lào, được phản ánh ở hiệu quả to lớn trên các chặng đường liên minh, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong giáo dục - đào tạo đội ngũ cán bộ, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tạo lập địa bàn chiến lược cho hai bên hoạt động, nương tựa, bảo vệ lẫn nhau. Đồng thời, mỗi bên đều sẵn sàng đáp ứng yêu cầu giúp Bạn, phối hợp với Bạn trên các lĩnh vực hoạt động. Tất cả đã diễn ra theo quy trình phát triển lực lượng từ yếu đến mạnh, từ nhỏ đến lớn, từ phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận đến hội nhập khu vực và quốc tế.

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ghi lại nhiều kỳ tích của hai dân tộc, xuất hiện hầu như cùng thời điểm từ khởi nghĩa giành chính quyền đến phát hiện con đường đổi mới phù hợp với quy luật phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của hai nước Việt Nam - Lào. Các hiện tượng đó xác nhận sức mạnh tổng hợp đưa tới những thắng lợi lịch sử tất yếu của hai dân tộc.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nguồn lực vô tận quý giá nhất của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Đó là thành quả lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của hai nước Việt Nam - Lào, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho hai dân tộc kề vai sát cánh đi tới thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nét ưu việt đặc sắc của lý luận đó là ở khả năng khắc phục sự biệt lập của các dân tộc phương Đông khi phải đối địch với họa xâm lược của nhiều nước tư bản phương Tây. Theo nhận định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự biệt lập đó chính là “nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông... Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN NHAU, SỰ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ VŨ LẪN NHAU”.

- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là động lực nhân lên gấp bội sức mạnh của hai dân tộc, do mỗi bên đều tự giác phát huy tinh thần tự lực, tự cường kết hợp với sự giúp đỡ vô tư của phía Bạn. Mặt khác, nó còn tạo ra ảnh hưởng qua lại tích cực, thuận chiều cho sự phát triển của cả hai nước trên các chặng đường lịch sử từ cách mạng giải phóng dân tộc đến sự nghiệp đổi mới.

Đó cũng là di sản văn hóa thiêng liêng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, nơi hội tụ biết bao giá trị cao đẹp và sâu sắc mà trí tuệ và tình cảm của nhân loại hằng ngưỡng mộ, tôn vinh, rất phù hợp với cách diễn đạt của Chủ tịch Xuphanuvông: “Tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam thật là vĩ đại mà bất cứ bài ca, bản nhạc nào, bất cứ bài thơ nào hay nhất cũng không sao diễn tả trọn vẹn được. Tình hữu nghị đó cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, đẹp hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn bất cứ đóa hoa nào thơm nhất. Tình hữu nghị cao đẹp đó đã được vun trồng, xây đắp với tất cả tấm lòng thành thật của chúng ta. Do đó, không thể có hung thần nào, không thể có kẻ thù nào phá vỡ nổi”.

Hai là, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đi tới nhiều kỳ tích lịch sử.

- Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau giành độc lập dân tộc.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy mâu thuẫn giữa những kẻ cướp nước với nhân dân Đông Dương lên đến cực điểm, khiến ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ và sẵn sàng tham gia công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong tình thế đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra nhiều quyết định độc lập, sáng tạo: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở vị trí hàng đầu và cho rằng sau lúc lật đổ chế độ thuộc địa, mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình; mặt khác, ba dân tộc cần đoàn kết chặt chẽ mới có thể chiến thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước phồn vinh. Đối với các dân tộc Lào và Campuchia, dân tộc Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do.

Hướng tới các mục tiêu trên, công tác xây dựng đảng, đào tạo cán bộ và tổ chức các lực lượng chính trị, vũ trang được khẩn trương tiến hành. Trong đó, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đảng tại Lào, Campuchia và phân công Đảng bộ Trung Kỳ đảm nhiệm công tác xây dựng đảng tại Lào, Đảng bộ Nam Kỳ thực hiện nhiệm vụ đó ở Campuchia.

Nhiệm vụ thành lập mặt trận dân tộc thống nhất tại Việt Nam, Lào, Campuchia rất được coi trọng với chủ trương thu hút rộng rãi nhất các giai cấp và tầng lớp yêu nước bằng cách thi hành các chính sách ích nước, lợi dân. Đồng thời, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo các cấp bộ đảng tổ chức đoàn thể cứu quốc, lực lượng vũ trang, lập căn cứ địa ở Việt Nam và Lào làm chỗ dựa để tập hợp và phát triển lực lượng cách mạng.

Cũng vào lúc này, Trung ương Đảng xác định quy trình khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương để tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Trung tuần tháng 8 năm 1945, thời cơ giành độc lập cho Đông Dương xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang (ngày 14, 15 tháng 8 năm 1945). Vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp các đồng chí đại biểu Xứ ủy Lào, Người dặn: thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông Dương, ở đâu có điều kiện, phải giành được chính quyền trước khi Đồng minh vào.

Nhân dân hai nước Việt Nam, Lào đã chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành công vào tháng 8 năm 1945.

Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam, Lào, của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Thành công của Tổng khởi nghĩa tại Việt Nam và khởi nghĩa tại Lào bắt nguồn từ sự sáng tạo trong vận dụng lý luận và chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương về cách mạng giải phóng dân tộc và vấn đề dân tộc ở Đông Dương, về huy động tối đa sức mạnh đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các lực lượng yêu nước nổi dậy giành chính quyền khi thời cơ khởi nghĩa xuất hiện.

(Còn tiếp)

(Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Tài liệu tuyên truyền, Nxb. CTQG).

Viết bình luận mới
Tin cùng chuyên mục
Các tin khác
Xem thêm >>